Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2020

Tổng quan về ý thức



NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
  
  *Khái niệm ý thứcÝ thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất. 
  *Nguồn gốc của ý thức (2 nguồn gốc)
      -Nguồn gốc tự nhiên: 
           +Bộ óc con người (có chức năng sản sinh ra ý thức)
           +Sự phản ánh thế giới khách quan đến bộ óc con người.
              Có nghĩa là: trong mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người để từ đó nó(bộ óc) tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người. VD: ta thấy một quyển vở rất đẹp, quyển vở đó tác động vào bộ óc của ta, sản sinh cho ta ý thức thấy quyển vở đó đẹp.
              Phản ánh là sự tái tạo đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động lẫn nhau giữa chúng. VD: nhiệt độ từ ánh nắng mặt trời tác động đến cục nước đá, cục nước đá phản ánh bằng cách tan chảy thành nước.
              -Các hình thức của phản ánh:
                  +Phản ánh vật lí:
 Là hình thức phản ánh đơn giản nhất (thấp nhất) ở giới vô sinh, thể hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá ( hiểu đơn giản là tác động như thế nào thì sự vật, hiện tượng nhận tác động như thế đó). VD: Cầu thủ dùng chân sút vào quả bóng làm nó bay đi 5m.
                  +Phản ánh sinh học:
Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật (hiểu đơn giản là hình thức phản ánh đặc trưng cho vật chất hữu sinh-vật chất có khả năng trao đổi chất với môi trường). VD: con người qua quá trình hô hấp nhận khí oxi và thải ra cacbonic (con người tác động vào bầu không khí, phản ánh lại bằng việc lấy đi oxi và thải ra cacbonic)
                  +Phản ánh ý thức:
là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người (và được thực hiện bởi bộ óc con người). Đây là sự phản ánh chủ động, lựa chọn thông tin, xử lí thông tin để tạo ra những thông tin mới và phát hiện ra ý nghĩa của các thông tin. VD: Con người thời nguyên thủy đã biết sử dụng các vật liệu có trong tự nhiên để chế tạo thành công cụ lao động. (tác động vào vật liệu và phản ánh nó thành các công cụ lao động)    

  
      -Nguồn gốc xã hội:
            +Lao động: con người trong quá trình lao động đã tác động vào giới tự nhiên làm giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, những quy luật. Từ những hiện tượng đó(thuộc tính, quy luật) được giác quan con người tác động vào bộ não người và sản sinh ra ý thức. VD: thời nguyên thủy, khi săn bắn động vật người nguyên thủy tấn công vào rất nhiều vị trí con mồi (chân, thân, đầu...) và nhận thấy khi tấn công đầu thì con mồi bị hạ gục nhanh hơn, từ đó nảy sinh ra ý thức đi săn thì sẽ tấn công nhiều vào đầu con mồi.
            +Ngôn ngữ: do nhu cầu của lao động, của giao tiếp mà ngôn ngữ hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện ra bên ngoài được. VD: thời nguyên thủy, khi chưa có bất kì loại ngôn ngữ nào, người nguyên thủy không thể biểu hiện ý thức (suy nghĩ) của mình với người khác được.


 *Bản chất của ý thức: là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của bộ óc người.
   
Hiểu là: sự phản ánh của ý thức không phải là sự phản ánh thụ động, ý thức không phải là bản sao của thế giới khách quan một cách giản đơn, cứng nhắc mà trái lại sự phản ánh của ý thức là phản ánh năng động sáng tạo về thế giới khách quan. Phản ánh của ý thức là phản ánh chọn lọc, nó tìm ra cái bản chất bên trong của đối tượng (tích cực). Và phản ánh trên cơ sở những tri thức đã có của con người mà qua đó ý thức của con người có khả năng sáng tạo ra những tri thức mới (sáng tạo).
 

 *Kết cấu của ý thức:
    -Các lớp cấu trúc:
      +Tri thức: là toàn bộ sự hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ (dạng nói, viết, hình ảnh...). VD: các tác phẩm văn học nổi tiếng được in trong sách giáo khoa.
      +Tình cảm: là sự rung động biểu hiện thái độ trong quan hệ với thế giới xung quanh và với chính bản thân mình. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và giữ vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con người. VD: tình yêu quê hương đất nước tạo động lực cho người lính đứng chống giặc ngoại xâm.
      +Ý chí: là sự biểu hiện sức mạnh của bản thân giúp ta vượt qua khó khăn, cản trở trong quá trình thực hiện một mục đích nào đó (có thể hiểu ý chí là quyền lực của con người với chính mình). VD: ý chí vươn lên trong học tập,...vv
  => Trong 3 hình thức trên thì t
ri thức là yếu tố quan trọng nhất, là nhân tố định hướng cho sự phát triển, quyết định mức độ hiểu biết của con người một cách khác nhau.
   -Các cấp độ:
      +Tự ý thức: là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.
        VD: sinh viên cần tự ý thức ở trong nhà để phòng tránh dịch Covid-19.
      +Tiềm thức: hoạt động tâm lí diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức.
        VD: khi ta muốn che dấu một sự thật gì đó, nhưng do bị tra hỏi gay gắt ta trở nên sợ sệt và tự tiết mồ hôi (dù ý thức ta không muốn tiết mồ hôi)
      +Vô thức: là hiện tượng tâm lí không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát trong một lúc nào đó.
        VD: hiện tượng mộng du


   

Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2020

Tổng quan về vật chất

 Vật chất và ý thức luôn là đề tài tranh cãi trong giới triết học về sự tồn tại của chúng. Vật chất ở đây là những gì, tại sao các nhà triết học duy vật lại khẳng định "vật chất là cái có trước và quyết định ý thức?". Các quan điểm trước Mác quan niệm về vật chất như sau:

 Thời kì Chủ nghĩa duy vật cổ đại cho rằng: Vật chất là nguyên tử, còn nguyên tử là thành phần nhỏ nhất không có sự phân chia. Qua đó đồng nhất vật chất với vật thể. Tại thời kì chủ nghĩa duy vật cận đại thì lại cho rằng: vật chất vẫn là nguyên tử và vật chất đồng nhất với khối lượng. Nhưng cả hai thời kì trên do chưa thoát được phương pháp tư duy siêu hình nên chưa đưa ra được những khái quát triết học về vật chất chính xác. Đến cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX, những khái quát về quan điểm duy vật siêu hình bắt đầu bị phá sản.

 Khi những quan điểm duy vật siêu hình bị phá sản, không ít nhà triết học theo trường phái duy vật bị dao động và lung lay, không ít người hoài nghi về tính đúng đắn của chủ nghĩa duy vật. Sau đó, qua những quan điểm của Ăngghen về vật chất (phải có sự phân biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù triết học; vật chất phải được cảm nhận bằng các giác quan; các sự vật, hiện tượng của thế giới mang một đặc tính chung-tính vật chất) Leenin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại lệ phụ thuộc vào cảm giác.

*Phân tích định nghĩa
-Thứ nhất, vật chất là một phạm trù triết học.
  +Có nghĩa là: vật chất ở đây (trong triết học) là chung nhất, khái quát nhất, nó vô cùng vô tận. Còn các vật chất trong khoa học nghiên cứu (vd như vật lí, hóa học, sinh học,...) thì là dạng vật chất cụ thể, có giới hạn, được sinh ra và mất đi (còn vật chất của triết học thì tồn tại vĩnh viễn). Không được đồng nhất khái niệm vật chất trong triết học với khái niệm vật chất trong các khoa học chuyên ngành.

-Thứ hai, vật chất tồn tại khách quan: tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào ý thức con người.
  +Có nghĩa là: vật chất là bất kì thứ gì tồn tại bên ngoài (sự vật, hiện tượng) dù con người có nhận thức được nó hay không nhận thức thức được nó. 

  VD: trong hộp kẹo có 5 viên kẹo, bạn nghĩ rằng chỉ còn 4 viên thì viên kẹo còn lại vẫn hoàn toàn tồn tại dù trong ý thức của bạn nó không tồn tại.
-Thứ ba, vật chất là thứ gây ra cho con người trong cảm giác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
  +Có nghĩa là: vật chất là thực tại khách quan là cái có trước, là nguồn gốc, là nội dung của cảm giác của ý thức, còn cảm giác ý thức của chúng ta có khả năng phản ánh được cái thực tại khách quan đó thì có nghĩa là con người có khả năng nhận thức được thế giới (thuyết khả tri luận).
*Ý nghĩa của phương pháp luận
- Đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng.
-Trong  nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên tắc khách quan - xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng khách quan, nhận thức và vận đúng đắn quy luật khách quan.
-Là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội (các điều kiện  sinh hoạt vật chất và các mối quan hệ vật chất xã hội)

*Các hình thức tồn tại của vật chất:
  -Vận động:
  • Định nghĩa: Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi đến quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản đến phức tạp trong tư duy.
  • Nguồn gốc: do mâu thuẫn giữa các mặt đối lập (tự thân vận động)
  • Hình thức (5 hình thức):
-Cơ học: sự di chuyển giữa các vật thể trong không gian.
    VD: chuyển cái ghế từ bên ngoài vào trong phòng.
  • -Vật lí: sự vận động của các phân tử,các hạt cơ bản , điện tử, các quá trình nhiệt điện ...
    VD: khi ta đun nước, nhiệt độ của ngọn lửa tăng thì nhiệt độ của ấm nước cũng tăng.
-Hóa học: quá trình tác động giữa chất này với chất khác.
    VD: cho đường hòa vào nước rồi khuấy lên, đường sẽ hòa tan trong nước.
-Sinh học: quá trình trao đổi chất với môi trường.
    VD: con người hô hấp tiếp thụ oxi và thải khí cacbonic ra ngoài môi trường.
-Xã hội: sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội.
    VD: sự chuyển đổi từ hình thái kinh tế - xã hội phong kiến sang hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.
=> Trong 5 hình thức vận động thì vận động xã hội là cao nhất vì nó bao hàm cả tất cả các hình thức vận động còn lại và chỉ do con người thực hiện.
  • Đứng im:  là một trạng thái đặc biệt của vận động ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể. 
       -Đứng im chỉ là tương đối
       -Đứng im chỉ xảy ra với một hình thức vận động nào đó chứ không phải với nhiều hình thức vận động cùng lúc.
       -Đứng im là biểu hiện của một trạng thái vận động-vận    động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối (sự vật chưa thay đổi căn bản về chất, nó còn là nó mà chuyển hóa thành cái khác)
       VD: cái bàn đứng im so với mặt sàn nhưng nó lại cùng Trái Đất vận động quay xung quanh Mặt Trời.
 -Không gian và thời gian:
  • Không gian: nói đến vật chất này bên cạnh vật chất kia hay vật chất ở bên trong hay ngoài vật chất kia. Không gian gồm 3 chiều: chiều dài, chiều rộng và chiều cao
  • Thời gian: vật chất nào cũng có độ dài diễn biến của nó, được thể hiện ở quá trình kế tiếp nhau của các quá trình từ quá khứ đến tương lai. Thời gian chỉ có 1 chiều từ quá khứ đến tương lai, không có chiều ngược lại. 
*Tính thống nhất của thế giới:
-Chỉ có một thế giới thống nhất là thế giới vật chất.
  +Có nghĩa là: thế giới vật chất là cái có trước (chứ không phải ý thức là cái có trước như theo duy tâm), tồn tại khách quan.Ngoài thế giới vật chất này ra thì không thể có thế giới thứ hai, thứ ba tồn tại mà không có vật chất.

-Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn và vô tận.
 VD: bánh mì là vật chất, khi ta ăn bánh mì thì bánh mì hoàn toàn không mất đi mà nó chuyển thể thành chất dinh dưỡng cho cơ thể...vv

-Thế giới vật chất luôn tác động qua lại với nhau.
   + Có nghĩa là: tất cả sự vật hiện tượng dù khác nhau đến mấy thì chúng đều là những dạng khác của vật chất, chúng đều có mối liên hệ vật chất với nhau đều là nguyên nhân và kết quả của nhau đều bị chi phối bởi những quy luật chung giống nhau.


Thứ Ba, 17 tháng 3, 2020

Khái lược về triết học Phần 3: Triết học - hạt nhân lí luận của thế giới quan


Khái lược về triết học phần 3 
Triết học-hạt nhân lí luận của thế giới quan


 Trong triết học, thế giới quan đóng vai trò rất quan trọng và cùng với phương pháp luận tạo nên hai chức năng chính của triết học. Trong thời kì lịch sử, khái niệm thế giới quan luôn được các nhà triết học đề cập đến,  qua đó dần trở nên phổ biến cho đến tận ngày nay.

 Thế giới quan (hiểu đơn giản là quan điểm của con người về thế giới) được định nghĩa: Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người (bao hàm cá nhân, xã hội và nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.

*Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan:

 - Thứ nhất, bản thân của triết học là thế giới quan.
Bởi vì, triết học mang đến cách giải thích chung nhất về quy luật vận động và phát triển cho nên những hệ thống tri thức, quan điểm, tình cảm...(có trong thế giới quan) đã được triết học bao hàm trong chính nó (triết học).

- Thứ hai, trong các thế giới quan khác như thế giới quan của các khoa học cụ thể, thế giới quan của các dân tộc hay của các thời đại..., triết học bao giờ cũng đóng vai trò là nhân tố cốt lõi.
- Thứ ba, với các loại thế giới quan tôn giáo,thế giới quan kinh nghiệm hay thế giới quan thông thường..., triết học bao giờ cũng có ảnh hưởng và chi phối, dù có thể không tự giác.

- Thứ tư, thế giới quan triết học như thế nào sẽ quy định các thế giới quan và các quan niệm khác như thế.

Thế giới quan duy vật biện chứng được coi là đỉnh cao của các loại thế giới quan đã từng có trong lịch sử vì thế giới quan này đòi hỏi thế giới phải được xem xét dựa trên những nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triển. Từ đây giúp thế giới và con người được nhận thức một cách toàn diện, lích sử, cụ thể và phát triển. Thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.

Thứ Hai, 16 tháng 3, 2020

Biện chứng và siêu hình



Biện chứng và siêu hình





 Trong lịch sử triết học, siêu hình và biện chứng là những cụm từ luôn song hành với nhau để nói về hai phương pháp lí luận .Theo Xocrat, biện chứng là nghệ thuật tranh luận để tìm chân lý bằng cách phát hiện mâu thuẫn trong cách lập luận. Theo Arixtot, siêu hình là dùng để chỉ triết học, với tính cách là khoa học siêu cảm tính, phi thực nghiệm Cả hai phương pháp trên đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển của triết học theo chiều dài lịch sử và tạo tiền đề cho triết học hiện đại.

 Trong triết học hiện đại, đặc biệt là Mácxít, “Biện chứng” và “siêu hình” trước hết được dùng để chỉ hai phương pháp tư duy chung nhất đối lập nhau, là “phương pháp biện chứng” và “phương pháp siêu hình”. Vậy sự khác nhau của siêu hình và biện chứng đến từ đâu?

a) Phương pháp siêu hình:

Phương pháp siêu hình là phương pháp được đưa từ toán học và vật lý cổ điển vào các khoa học thực nghiệm.

- Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng khỏi các quan hệ được xem xét và coi các mặt với nhau có 1 ranh giới tuyệt đối.

+ Hiểu đơn giản: Giống như 1 cái cây có đầy đủ thân, hoa, lá, cành, quả. Theo phương pháp siêu hình thì họ chỉ nhìn thấy sự phát triển của thân cây chứ họ không nhìn thấy mối quan hệ giữa  hoa, lá, cành, quả với cái thân cây. Họ coi hoa, lá, cành, quả là 1 thứ riêng biệt với thân cây.

- Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh; đồng nhất đối tượng với trạng thái tĩnh nhất thời đó. Thừa nhận sự biến đổi chỉ là về số lượng, về các hiện tượng bề ngoài. Nguyên nhân của sự biến đổi coi là nằm ở bên trong đối tượng.

+ Hiểu đơn giản:

Theo phương pháp siêu hình thì cái cây lớn lên không phải tự phát triển mà là có sự tác động từ bên ngoài vào làm nó phát triển.

Cho rằng mọi sự biến đổi về chất thực ra là chỉ là biến đổi bề ngoài và chất không thay đổi.

Ví dụ: Nếu xét theo phương pháp siêu hình thì vũng nước, cái hồ nước không khác gì nhau về chất mà chẳng qua chỉ là sự thay đổi về lượng nước, hình thức chỉ là cái hồ nước to hơn vũng nước. Thực tế điều này không đúng vì vũng nước là thứ không phục vụ cho cuộc sống con người nhưng hồ nước thì có tác dụng cung cấp nước, điều hòa không khí. Hai thứ này hoàn toàn khác nhau nếu như xét theo từng mối liên hệ của chúng. Sở dĩ phương pháp siêu hình không thấy được điều này là vì phương pháp này đặt từng sự vật hiện tượng riêng biệt và không xét đến các mối liên hệ của nó.

- Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, phương pháp siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa các sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.

b) Phương pháp biện chứng:

- Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến của nó. Đối tượng và các thành phần của đối tượng luôn trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng nhau, ràng buộc, quy định lẫn nhau.

+ Hiểu đơn giản: Một cái cây có mối liên hệ bên ngoài với nước, với đất, với con người, với động vật xung quanh. Các mối liên hệ này qua lại với nhau, ví dụ như khi con người chăm sóc cây, thì cây ra hoa ra quả, tạo bóng mát cho con người. Ở ngay bên trong cái cây đó cũng có các bộ phận là thân, cành, lá, hoa, quả. Cây nhiều lá thì ít hoa ít quả, cây ít cành thì thân càng cao. Mỗi sự vật, hiện tượng luôn có mối liên hệ bên trong và bên ngoài như vậy.

- Nhận thức đối tượng ở trạng thái luôn vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng phổ quát là phát triển. Quá trình vận động này thay đổi cả về lượng và cả về chất của các sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc của sự vận động, thay đổi đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật.

Phương pháp biện chứng giúp con người không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng mà còn là cả sự hình thành, vận động, phát triển và suy vong của đối tượng.

Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2020

Khái lược về triết học Phần 2: Nguồn gốc triết học và vấn đề của đối tượng triết học trong lịch sử



Khái lược về triết học phần 2

Nguồn gốc triết học
và vấn đề của đối tượng triết học trong lịch sử


a) Nguồn gốc của triết học

- Triết học ra đời vào khoảng thế kỉ thứ VIII đến thế kỉ thứ VI TCN tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại.

- Gắn với 3 nền văn minh
+Phương Đông (Ấn Độ, Trung Quốc)
+Phương Tây (Hy Lạp)

*Nguồn gốc nhận thức:

- Trong quá trình lao động và cải biến thế giới, con người có kinh nghiệm và tri thức về thế giới. Ban đầu là các tri thức riêng lẻ, cảm tính, sau đó qua quá trình tiến bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người đạt đến trình độ cao trong việc giải thích thế giới một cách logic, nhân quả… Triết học ra đời để đáp ứng nhu cầu nhận thức của con người

*Nguồn gốc xã hội:

- Sau khi xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, xã hội có giai cấp hình thành, sự phân chia lao động xuất hiện, tầng lớp tri thức xuất hiện, các nhà thông thái đã đủ năng lực tư duy trìu tượng, xây lên các học thuyết, lý luận. Triết học từ đó mà ra đời

- Triết học mang tính đảng (nhằm bảo vệ cho giai cấp nào đó, bảo vệ cho những lực lượng xã hội nhất định)

b)          Vấn đề của đối tượng triết học trong lịch sử

- Thời Hy Lạp cổ đại: Tồn tại nền triết học tự nhiên, đối tượng của triết học thời này là tất cả các tri thức mà con người có được trước hết là khoa học tự nhiên (Toán học, vật lý, thiên văn học)

- Tây Âu thời Trung cổ: triết học tự nhiên bị thay thế bằng triết học kinh viện, đối tượng thời này tập trung vào các niềm tin tôn giáo, thiên đường, địa ngục,…

- Triết học thời kì phục hưng, cận đại: xuất hiện 2 trường phái là: triết học không còn đối tượng để nghiên cứu( vì khoa học tự nhiên tách ra thành các khoa học chuyên ngành) và triết học vẫn là “khoa học của các khoa học”( tức là triết học là nền tảng khoa học nền tảng để các khoa học khác phát triển). Mác phê phán cả 2 quan niệm này.
Triết học cổ điển Đức: Là triết học cuối cùng có quan niệm “Triết học là khoa học của các khoa học”

- Triết học Mác: Triết học Mác ra đời và có xác định được đối tượng rõ ràng, là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy

Tóm tắt đơn giản: Đối tượng của Triết học Mác là:

- Giải thích MQH giữa vật chất và ý thức ( cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào ?) trên nền tảng duy vật triệt để (hoàn toàn duy vật, không lẫn 1 chút yếu tố duy tâm nào cả).

- Nghiên cứu quy luật của thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy. 

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2020

Vấn đề cơ bản của triết học


Vấn đề cơ bản của triết học


 Như các bạn đã biết, khoa học nào cũng tồn tại vấn đề cơ bản của nó và triết học cũng không nằm ngoài quy luật này. Vậy vấn đề cơ bản của triết học là gì ?

- Theo Ăng-ghen, ông xác định đó là quan hệ giữa tồn tại và tư duy hay giữa vật chất và ý thức hay giữa tự nhiên và tinh thần.

Hiểu đơn giản: Vấn đề cơ bản của triết học chính là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

- Vấn đề cơ bản của triết học bao gồm hai mặt và mỗi mặt trả lời một câu hỏi liên quan tới thế giới và liên quan đến con người.

Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
Mặt thứ haiCon người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?

- Việc trả lời hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết học:

+ Việc trả lời câu hỏi thứ nhất dẫn đến sự ra đời của hai trường phái: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
+ Việc trả lời câu hỏi thứ hai dẫn đến sự ra đời của hai thuyết: Khả tri  Bất khả tri.

a) Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm:
- Chủ nghĩa duy vật bao gồm ba hình thức cơ bản:

Chủ nghĩa duy vật chất phác: là kết quả của triết học duy vật Cổ đại, tuy mang tính trực quan, ngây thơ, chất phác nhưng đã lấy được bản thân giới tự nhiên (một hoặc một vài sự vật vật chất cảm tính nào đó) để giải thích thế giới chứ không viện đến Thần linh hay các thế lực siêu nhiên.

Tóm tắt:
  • Ra đời vào thời kì cổ đại.
  • Đã đúng khi chỉ ra vật chất là thứ tạo nên thế giới (Không viện vào thần linh).
  • Chưa có chứng minh khoa học mà là chỉ phán đoán chủ quan (ngây thơ, chất phác).
Ví dụ: -Tales cho rằng thế giới này là thế giới của nước; nước bốc thì thành hơi, thành lửa, đọng lại thì thành đất.
           -Hay trong triết học Trung Quốc quan niệm thế giới được tạo nên bởi Ngũ hành: kim-mộc-thủy-hỏa-thổ.

Chủ nghĩa duy vật siêu hình: các nhà triết học duy vật coi thế giới là một cỗ máy khổng lồ, các bộ phận tạo nên cỗ máy đó tồn tại biệt lập (xem xét sự vật một cách cô lập) bên cạnh nhau không vận động, không phát triển nếu có chỉ là sự tăng hay giảm về lượng và cho rằng nguồn gốc sự vận động nằm bên ngoài thế giới, ngoài vật chất, ngoài các sự vật hiện tượng. Do vậy Chủ nghĩa duy vật siêu hình chưa phản ánh được hiện thực khách quan về những mối liên hệ phổ biến và sự phát triển của thế giới, góp phần chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.

Tóm tắt:
  • Ra đời vào thời kì cơ học cổ điển phát triển (từ thế kỷ XV-XVIII)
  • Đặt từng sự vật, hiện tượng ra riêng biệt để đánh giá, không có mối quan hệ với thế giới.
  • Cho rằng sự phát triển của sự vật hiện tượng là từ tác động bên ngoài chứ không tự thân vận động được.
  • Chưa phản ánh được hết thế giới, vẫn còn thiếu sót.
  • Đã đẩy lùi được chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
Ví dụ đơn giản: Nếu muốn đánh giá một con người thì đúng ra phải đánh giá chính bản thân người đó, tiếp đến là các mối quan hệ của người đó với gia đình, với bạn bè, với xã hội nhưng nếu theo chủ nghĩa duy vật siêu hình thì chỉ đánh giá đúng 1 con người đó thôi, riêng biệt và không có các mối quan hệ với gia đình, cộng đồng.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng: do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỉ XIX, sau đó được V.Lenin phát triển. Kế thừa tinh hoa của các thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để thành tựu khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời Cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. CNDVBC phản ánh đúng và là công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ xã hội cải tạo hiện thực ấy.

Tóm tắt:
  • Do Mác, Ănghen xây dựng, Lênin phát triển (Những năm 40 của thế kỉ 19).
  • Kế thừa các thành tựu khoa học và các thuyết triết học.
  • Khắc phục hạn chế của 2 chủ nghĩa duy vật cũ.
  • Phản ánh đúng thế giới.
  • Nhận thức đối tượng trong các mối liên hệ phổ biến, vận động và phát triển.
  • Giúp con người thấy sự hình thành, phát triển và suy vong của đối tượng.
  • Là công cụ cải tạo thế giới (làm thế giới tốt đẹp hơn).
Ví dụ đơn giản: Khác với chủ nghĩa duy vật siêu hình, theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, muốn nhận xét một con người thì ta vừa nhận xét bản thân người đó, nhận xét mối quan hệ của người đó với gia đình, với xã hội.

- Chủ nghĩa duy tâm bao gồm hai trường phái:

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người, nhưng phủ nhận tính khách quan của hiện thực, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp của cảm giác.

Hiểu đơn giản: chủ nghĩa này cho rằng tất cả những gì chúng ta thấy, chúng ta nghe được thì đều không tồn tại thực tế, mà chỉ là chúng ta cảm thấy mà thôi. Mọi thứ đều là do suy nghĩ của con người quyết định chứ không có sự tác động từ bên ngoài nào cả.

Chủ nghĩa duy tâm khách quan: ý thức, tinh thần nói chung như ‘ý niệm’, ‘ý niệm tuyệt đối’, ‘tinh thần thế giới’ là cái tồn tại khách quan bên ngoài con người.

Hiểu đơn giản: Chủ nghĩa này cho rằng có 1 thế lực siêu nhiên (thần thánh, chúa trời,...) tạo ra thế giới.

b) Thuyết có thể biết (Thuyết Khả tri) và thuyết không thể biết (thuyết Bất khả tri)
Thuyết có thể biết (Thuyết Khả tri): Con người có thể nhận thức được thế giới.
Thuyết không thể biết (thuyết Bất khả tri): Con người không thể nhận thức được thế giới.

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2020

Khái lược về triết học Phần 1: Triết học là gì ?


Khái lược về triết học phần 1:

Triết học là gì ? (Khái niệm Triết học)

Triết học có nhiều khái niệm khác nhau, ví dụ:

-Ở Trung Quốc: Triết (Trí). Triết học là sự truy tìm bản chất của đối tượng nhận thức, thường là con người, xã hội, vũ trụ và tư tưởng. Triết học là biểu hiện cao nhất của trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người về toàn bộ thế giới thiên-địa-nhân và định hướng nhân sinh quan cho con người.

Hiểu đơn giản: Theo người Trung Quốc thì triết học nghĩa là đi tìm cái cốt lõi của thế giới,con người,vũ trụ(thế giới từ đâu mà ra ? Vận hành thế nào ?) và định hướng quan niệm sống cho con người

-Ở Ấn Độ: Triết học là chiêm ngưỡng, hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.

Hiểu đơn giản: Theo người Ấn Độ thì triết học là sự suy nghĩ, suy ngẫm để biết được thứ gì là đúng đắn, thứ gì là sai trái. Mục đích cuối cùng là giúp cho bản thân, xã hội được tốt đẹp hơn.

-Ở Phương Tây: Triết học (Philo – sophia), xuất hiện ở Hy Lạp Cổ đại, với nghĩa là yêu mến sự thông thái. Người Hy Lạp cổ đại quan niệm, philosophia vừa mang nghĩa là giải thích vũ trụ, định hướng nhận thức, hành vi, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.

Hiểu đơn giản: Giống như với quan niệm của Trung Quốc, quan niệm về Triết học của Phương Tây( Cụ thể là Hy Lạp) cũng là đi giải thích thế giới và đề cao khát vọng, mong muốn của con người để tìm cái đúng( chân lý).

 *Với sự ra đời của Triết học Mác – Lê Nin, thì khái niệm triết học được nêu một cách rõ ràng. Theo Triết học Mác- Lê nin thì triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động phát triển chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy.

=> Có 2 ý như sau:
-Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó.

Hiểu là: Triết học là các quan điểm lý luận có hệ thống (tức các quan điểm được chứng minh bằng lý luận có liên hệ với nhau 1 cách chặt chẽ), các quan điểm lý luận có hệ thống này lý giải chung nhất (trái ngược với chi tiết) về thế giới( Thế giới xuất hiện như thế nào, hình thành và phát triển ra làm sao ?) và vị trí của con người trong thế giới đó ( con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không ? Con người có thể tác động được vào thế giới để làm biến đổi thế giới hay không hay mọi thứ đều là sắp đặt ?).

-Triết học là khoa học về những quy luật vận động phát triển chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy.

Hiểu là: Triết học là khoa học giải thích về sự hình thành và phát triển một cách chung nhất (khác với chi tiết) về tự nhiên, xã hội và tư duy.

Phân biệt giải thích chung nhất với giải thích chi tiết:
Ví dụ: Mầm cây trở thành cây
-Sinh học (Khoa học giải thích chi tiết): Mầm cây qua quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng, ánh sáng và độ ẩm phù hợp thì nảy mầm và thành cây.
-Triết học (Khoa học giải thích chung nhất): Mầm cây qua sự vận động của sự vật hiện tượng, biến đổi thì trở thành cây.